Đố vui: Một trà, một rượu, một đàn bà 05/06/09 00:44 GMT+7 Gốc Cụ Tú Xương từng viết: "Một trà, một rượu, một đàn bà / Ba cái lăng nhăng nó hại ta".
^_^ Một trà một rượu một đàn bà / Ba cái lăng nhăng nó hại ta / Chừa được cái nào hay cái ấy / Có chăng chừa rượu với chừa trà (Ba thứ lăngnhăng - Tú Xương) Một số bài họa bài thơ trên của Tú Xương : Tam thú bất ly Một ấm một be với một bà Thiếu ba thứ ấy bất thành ta
Với họ, vị đắng chát của trà như có ma lực "trói chân" họ Nhà thơ Tú Xương từng có câu Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó hại ta/Chừa được cái gì hay cái nấy,/Có chăng chừa được rượu với trà!
Một rượu một trà một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó hại ta. Tấm ảnh trắng đen sờn cũ cuối thế kỷ mười chín, chụp cụ Nguyễn đang rưng rưng cầm trong tay một chén rượu nhỏ hạt mít, được rất nhiều nhiếp ảnh gia đương đại coi là mẫu mực của thể loại ảnh chân
"Một trà, một rượu, một bọn bà. Ba loại lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được vật dụng nào hay lắp thêm nấy. Hoạ chăng chừa rượu cùng với chừa trà." Vậy ta hãy tán gẫu về hầu như thứ cơ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui: 1- MỘT TRÀ:
.
Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người còn tự hào về những thói hư tật xấu của mình. source from Quách Tố Vương Xin đọc câu chuyện vui sau đây “Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gã lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi – Ông là ai mà đứng trước nhà tôi? Gã lạ mặt trả lời- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui lòng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn đàn ông từ chối – Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh bạc. Gã lạ trả lời – Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là gì, thì khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc. Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói – Vậy thì mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều Gã lạ mặt ngạc nhiên – Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn. Người đàn ông nói – Tôi chỉ muốn vợ tôi nhìn thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi! Như ông Tú Vị Xuyên “Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.” Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái Ăn, ngủ, ấy, ể. Những cái khoái của ông Tú là “Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ nấy Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.” Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui 1- MỘT TRÀ Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà thì nghe chồng gọi “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.” Trà là thức uống thanh nhã của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè. Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau. Bà vợ ngạc nhiên la lên “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hãi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?” Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay tìm một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta tìm ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn. Trà uống có nhiều cách. Có người tính tình giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào bình rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đã thì thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.” Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. Còn nước giếng thì phải trong, ngọt và không có phèn. Bậc vua chúa uống trà còn cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái lò than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không còn khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái bình bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp bình lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống. Loại bình trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần. Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một mình vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời. Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với mình gọi là đối ẩm. Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra còn trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và còn nhiều nữa. Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ vì vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không còn nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào phòng tắm vét hết số nước còn lại trong một cái xô” đem nấu trà đãi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật gì, cố gắng khạc ra thì là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem thì không có loại trà nào là Ô Lông cả.. Còn một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm. II- MỘT RƯỢU Rượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản. Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở còn tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho. Bậc vua chúa ngày xưa, đã biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ. Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ chìm. Lã Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lã Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đã ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống dòng sông Dịch chửi thề – Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công thì ông đíu thèm qua sông nầy nữa. Và lần đó Kinh Kha đã hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh. Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu thì chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà còn phải nhập vào linh hồn của rượu nữa. Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu thì có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo. Thứ nhứt rượu đã ngà ngà, Thứ nhì chàng ở phương xa mới về. Chàng ở phương xa mới về thì phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. Còn rượu đã ngà ngà thì không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi. Lờ rằng lờ chẳng sợ ai Sợ thằng say rượu ấy dai đau lờ. Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. Vì vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say. Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu thì tìm cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon thì chém chết cũng đòi rượu mà đòi rượu coi như sụp bẫy các bà. Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi. Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon thì nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong lòng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự thì còn gì bằng Một ly nhâm nhi tình bạn Hai ly uống cạn lòng sầu Ba ly mũi chảy tới râu Bốn ly ngồi đâu gục đó Năm ly cho chó ăn chè Sáu ly vợ đè cạo gió. Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt Sparkling wine thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v…v… Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đã nói một câu để đời về rượu Champange – Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng. – Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu. Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay chát trắng và loại Pinot noir chát đỏ của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đã hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange còn rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây. Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là – Lứ chía pừng hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? Vì quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái. Ngoài ra còn Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách. Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu thì hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi vòng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra còn rượu Bình tây, rượu nếp than. Sau năm 19 75 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ. Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết. Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền thì uống ngàn chung cũng còn quá ít. “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua là tại không tiền không mua.” III- MỘT ĐÀN BÀ Như trên đã nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn tìm hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn gì để thắt mắc. Ca dao có câu Còn ăn, còn ngủ, còn gân, Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi? Ăn không được, ngủ không được làm gì có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được thì thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà gì cũng có thể bỏ được, còn món đàn bà thì vô phương Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được. Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. Sáng Thế K. 2 21, 22. Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn thì bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn. Nhìn lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa. Còn ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng vì nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng vì cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng vì “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đã nói Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh chìm được con người. Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại “Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại còn được sống trong chế độ ba nuôi Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi. “Nhỏ thì nhờ mẹ nhờ cha, Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.” Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột tìm trâu, tối ngày mò tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng Từ anh chồng cũ đến chàng là năm Còn như yêu vụng nhớ thầm Họp chợ trên bụng có trăm con người.” Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ trình của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ trình của các bà thênh thang như xa lộ không đèn. Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm nga Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. / phan nguyên luân / … thực hiện
“Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ nấy Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.” ************************************* Nếu phải đường đời bằng phẳng hết, Anh hùng hào kiệt có hơn ai. This entry was posted in Tho ca. Bookmark the permalink.
Mục lục Thơ về uống trà Sau loạn về Côn Sơn cảm tác - Nguyễn Trãi Trích thơ Nguyễn Du Ba cái lăng nhăng - Tú Xương Trích thơ Nguyễn Khuyến Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông Thơ về trà - Phạm Thuận Thành Thơ về trà - Hoàng Năng Trọng Thơ về trà - Thục Vân Thơ về trà - Đăng Học Trà sớm - Trần Ngọc Tuấn Uống trà thức đêm - Yến Lan Chiều uống trà nhớ bạn tâm giao - Hoa Thuỷ Vu Chén trà trong thu sớm - Lê Ngọc Hồ Cùng Vợ Uống Trà Xuân - Vũ Đình Phận Uống trà với trăng - Phạm Lưu Đạt Em uống trà - Trần Minh Hiền Đầu xuân, uống trà cùng bạn - Trần Đăng Khoa Thơ về trà xanh Bình Minh - Phùng Quang Thuận Hương Trà Xanh - Hoàng Huy Giang Tìm Đến Dambri - Trần Công Khanh Chè Xanh Xứ Thái - Đào Thái Phương Về Rừng - Phùng Quang Thuận Chén Trà Quê Hương - Hoàng Thanh Hoài Niệm Một Mùa Xuân - Thiên Ân Trầm Tư Bên Đóa Hoa Quỳnh - Tam Muội Lưu Luyến Hương Trà - Nguyễn Văn Cư Thơ về Trà Xanh - Phan Trung Thành Tuyển tập thơ về trà đạo Kệ Uống Trà - Cao Bá Quát Thơ Nguyễn Du Thơ Nguyễn Trãi Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông Uống trà thức đêm - Yến Lan Thơ Trần Quang Khải Thơ của Lê Hữu Trác Thơ về uống trà một mình Hai Chữ - Bounthanh Sirimoungkhoune Một Ngày - Thái Thăng Long Bao Mùa Vẫn Xa - Bounthanh Sirimoungkhoune Ngập Tràn - Bounthanh Sirimoungkhoune Tuyển tập thơ về trà sữa Thơ vui về trà sữa Chuyện Tình Bốn Năm - Hồ Quốc Ái Miên Man - Khánh Linh Một chút - Ngũ Đệ Trà là một trong những chủ đề quen thuộc trong thơ ca bởi nó gần gũi và gắn bó với người Việt. Đặc biệt, thơ về trà cũng sở hữu số lượng tác phẩm không hề nhỏ nhờ việc được thể hiện súc tích, ngắn gọn nhưng không kém phần nên thơ, ý vị. 1. Thơ về uống trà Uống trà là một thú vui thi vị và tao nhã được ưa chuộng từ xưa đến nay. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu những bài thơ về uống trà đặc biệt nhất trong phần tiếp theo của bài. Sau loạn về Côn Sơn cảm tác - Nguyễn Trãi Làng xưa như mộng trong ngần Can qua chưa dứt, yên phần mừng thay Bao giờ lều cỏ núi mây Pha trà nước suối, gối say đá mềm Nguyễn Trãi Trích thơ Nguyễn Du Khi hương sớm lúc trà trưa Bàn lan điểm nước đường tơ họa đàm Nguyễn Du Ba cái lăng nhăng - Tú Xương Một trà, một rượu, một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà! Tú Xương Trích thơ Nguyễn Khuyến Khi trà chuyên năm ba chén Khi Kiều lẩy một đôi câu Nguyễn Khuyến Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông Nhà lá đơn sơ Tấm lòng rộng mở Nồi cơm nấu dở Bát nước chè xanh Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau Hoàng Trung Thông Thơ về trà - Phạm Thuận Thành Mỗi sớm pha ấm trà Niềm vui đến chật nhà Hương bốn mùa gói lại Gửi tặng người đường xa. Phạm Thuận Thành Thơ về trà - Hoàng Năng Trọng Ví không sánh chát từ xanh tóc Đâu dễ dư hương đến bạc đầu Trăm tuổi người đi trà ở lại Khói sương lãng đãng để bền lâu. Hoàng Năng Trọng Thơ về trà - Thục Vân Bốn bề tĩnh lặng chiều hôm Lâng lâng một chén trà thơm cuối ngày. Một cành hồng bóng lay lay Cảnh thiền gió thoảng hương bay dịu dàng Đêm nay bên ấm trà Long Tỉnh Ngan ngát hương thu Nguyệt Quế Hoa Nhấp chén trà thơm trong tịch tĩnh, Hương trời khí đất toả lòng ta. Thục Vân Thơ về trà - Đăng Học Thèm bấy lâu nay một ngụm trà Ngóng người tri kỷ tận nơi xa Hương trà xứ ấy lòng còn lắng Dẫu có bao xuân vị chẳng nhòa. Đăng Học Trà sớm - Trần Ngọc Tuấn Qua đêm phiền não tan rồi Ấm ly trà sớm ta ngồi với ta Hiên ngoài vài giọt sương sa Tan trên chồi biếc chan hòa nắng mai. Trần Ngọc Tuấn Uống trà thức đêm - Yến Lan Trà đậm kéo đêm dài Lòng không bận nhớ ai Lắng chừng bên hàng xóm Đom đóm rọi vườn mai. Yến Lan Chiều uống trà nhớ bạn tâm giao - Hoa Thuỷ Vu Tay ngoan em mở vườn lòng Vạn hoa tung cánh bay trong chiều tà Ta ngồi ngắm cảnh nhớ nhà Mật ngôn rụng xuống tách trà thơm duyên. Hoa Thủy Vu Chén trà trong thu sớm - Lê Ngọc Hồ Mây bạc long trời, sông khói sương Trong nhà phảng phất tỏa trà hương Bập bùng ngọn lửa trong lò ấm Nâng chén trà yêu đẹp khác thường Một hớp trà dư tỉnh cả người, Bạn bên chậu cúc hé môi tươi Giọt trong hổ phách xinh như ngọc, Sợi khói vờn trên chén gọi mời Chợt thấy năm nào không thấy xa, Hầu trà bên án với cha già, Người vui kiều lẩy trong thu chớm Nâng chén trà lên lại nhớ nhà... Nhấp chén trà pha với ánh trăng Lâng lâng như tưởng ở cung Hằng Kim ngân thơm thoảng hương mùi ngọt Say thú trà trăng không nói năng. Lê Ngọc Hồ Cùng Vợ Uống Trà Xuân - Vũ Đình Phận Sáng xuân, pha một ấm trà, Một chồng, một vợ, nhẩn nha, thưởng cùng. Hương trà bay nhẹ lên không, Thơm như sen nở trong lòng chén xuân! Nhấp môi, hít nhẹ hương ngân, Anh như uống được mây vần, gió reo Bao nhiêu phiền muộn bay vèo. Tâm thần sảng khoái trong veo lại về. Em rằng sao thấy đê mê, Trà này mang cả tình quê gửi vào, Vị trà thấm đẫm trăng sao, Hương trà tụ cả nắng đào, mưa dông... Em ơi xin vợi chén lòng, Cùng anh, ta uống mênh mông đất trời... Vũ Đình Phận Uống trà với trăng - Phạm Lưu Đạt Gió đưa Một thoáng hương lài Tôi đem Nhốt lại ngâm trà cho thơm Đêm chờ Trăng sáng sân sau Mình tôi cùng với Bình trà mời trăng Trăng còn Mắc cỡ trên cao Đôi khi Với lấy làn mây che mình Đêm nay Trăng quá thẹn thùng Tôi buồn Tự bảo “thôi chờ ngày mai”. Phạm Lưu Đạt Em uống trà - Trần Minh Hiền Thưởng trà em uống cho ngon Anh ngồi nhìn ngắm lòng con khát khao Em xinh đẹp tự thuở nào Nàng tiên giáng thế ngọt ngào thiết tha Trà thơm, em tựa ngọc ngà Mùi hương quyến rũ như là cõi mơ Vần thơ trong bóng sương mờ Em cho anh biết thẫn thờ không thôi Uống trà em uống hồn tôi Lòng anh ao ước bồi hồi trái tim Muốn làm giọt trà lặng im Cho em nhấp ngụm môi mềm thanh cao. Trần Minh Hiền Đầu xuân, uống trà cùng bạn - Trần Đăng Khoa Nhấp chén trà thứ nhất Da thịt bỗng tỏa hương Đời thực thành cõi mộng Trần gian hóa thiên đường Ta nâng chén thứ hai Cho đất trời tinh khiết Tâm ta bừng sáng ra Biết thêm điều chưa biết Mai sau đời dẫu tuyệt Chắc gì hơn lúc này Nào châm thêm chén nữa Hai đứa mình cùng… bay… Trần Đăng Khoa 3. Thơ về trà xanh Trà trong thế giới thưởng trà có rất nhiều loại, tuy nhiên tại Việt Nam, trà xanh vẫn là loại trà thân thuộc và được đa số người Việt ưa chuộng. Dưới đây là tổng hợp những bài thơ về trà xanh đặc sắc mang dáng dấp của cách thưởng trà đậm chất Việt nhất. Bình Minh - Phùng Quang Thuận Sớm mai Sương đọng trên cành Pha ấm trà xanh Độc ẩm Nghe chim hót Nhìn hoa nở Bâng khuâng Nhớ mãi những năm nào… Ngày tháng qua mau Tro tình lạnh giá Ai qua cầu độ nọ Như còn vẫy tay chào…! Phùng Quang Thuận Hương Trà Xanh - Hoàng Huy Giang Khách chẳng ghé như những lần hẹn trước Chén trà xanh đã hâm nóng bao lần Chiều dần trôi bên sườn núi mênh mông Mà bóng khách vẫn biệt tăm vắng dạng. Hoàng Huy Giang Tìm Đến Dambri - Trần Công Khanh Tôi đến nơi đây cũng xế chiều Sườn đồi quạnh khúc bóng cô liêu Đàn bò lững thững dời chân bước Bản vắng lơ ngơ một cánh diều Những áng mây xa lại thấp dần Đất trời bỗng chốc trở nên thân Đồi cao rộng phủ trà xanh mướt Vạt nắng nghiêng soi vẻ ngại ngần Mảnh đất Tây Nguyên quả lạ lùng Núi hồ một thể sánh vai chung Cỏ cây hoa lá cùng mây nước Nguyện kết trăm năm giữa điệp trùng Mạch thác ai khơi tự thuở nào Kiêu hùng chảy mãi giữa tầng cao Truyền nguồn máu trắng về sơn cước Nhựa sống thiên nhiên cuộn chực trào. Trần Công Khanh Chè Xanh Xứ Thái - Đào Thái Phương Ngẩn ngơ nhìn đồi chè xanh Kết tinh trời đất trong lành sớm mai Ô kìa nhìn ngắm tay ai Nâng niu từng búp miệt mài sớm hôm Chén trà xanh vị hương thơm Hương trà xanh quện như ôm đất trời Nâng niu từng giọt mồ hôi Đậm hương chè Thái cho đời ngợi khen Anh lên chợ Thái cùng em Để anh buôn ấm ngồi bên chén trà Yêu nhau chẳng ngại đường xa Nghĩa tình trọn vẹn đậm đà Thái Nguyên. Đào Thái Phương Về Rừng - Phùng Quang Thuận Lâu lắm mới về thăm cây cỏ Cành thông non giờ lửng ngang trời Bác tiều phu đã ra người thiên cổ Cô gùi măng biền biệt mù khơi Cánh rừng chiều chim bay về núi Giờ trà xanh chạy xuống chân đồi Mây đầu núi trắng trên đầu núi Gió đưa hương khơi gợi một thời Con bướm trắng về từ xa vắng Chớp đôi cánh mỏng tiễn chiều trôi Lưng đồi một mái đầu bạc trắng Như cánh cò côi giữa đất trời. Phùng Quang Thuận Chén Trà Quê Hương - Hoàng Thanh Một ngày thăm viếng đất cao nguyên Thưởng thức hương sen đậm vị thiền Trà xanh pha nước dòng cam lộ Hồn bỗng thanh cao hết muộn phiền. Hoàng Thanh Hoài Niệm Một Mùa Xuân - Thiên Ân Nắng xuân mỏng ru đời nhè nhẹ Má ửng hồng em ghé thăm anh Cầm ly ấm áp trà xanh Hàn huyên tâm sự ngọn ngành gần xa. Thiên Ân Trầm Tư Bên Đóa Hoa Quỳnh - Tam Muội Đêm trăng rực rỡ phả không gian Ấm tửu trà xanh đã sẵn bàn Thưởng ngoạn đóa Quỳnh e ấp nở Nhẹ nhàng phảng phất quyện quan san. Tam Muội Lưu Luyến Hương Trà - Nguyễn Văn Cư Nhọc nhằn em hái búp non Hàng trà xanh biếc tay còn tuổi thơ Đồi nghiêng nghiêng, dốc chơ vơ Khi trời vừa sáng sương mờ ban mai Công phu sao chế miệt mài Dâng đời một chén cho dài nhớ thương Mai xa trăm nẻo con đường Hương trà còn mãi vấn vương theo mình. Nguyễn Văn Cư Thơ về Trà Xanh - Phan Trung Thành Sư cười tỏa nắng vườn không Uy nghi bàn thạch khay đồng chén lam Trà xanh ấm dạ tương bần Sư thong thả rót khói trầm tĩnh bay… Ngôi Tam bảo rộng chuông đầy Sóng lan tóc mẹ rẻo cày bóng cha Ngày như lá giấu sắc trà Ta như ngày giấu đêm qua tóc mình Hồn trà thoát xác lòng thinh Tôi nghiêng tay rót chạm bình rỗng rang. Phan Trung Thành Xem thêm Tuyển tập 30 bài thơ về dòng sông - con nước êm trôi 4. Tuyển tập thơ về trà đạo Không chỉ còn là một thú chơi đơn thuần, thưởng trà cũng có những cách thức riêng biệt. Cụ thể, trà đạo bao gồm hai vế là thưởng trà và đàm đạo triết lý. Các bạn hãy tham khảo ngay những vần thơ về trà đạo sâu sắc được sưu tầm dưới đây. Kệ Uống Trà - Cao Bá Quát Thư nhàn hỏi lửa pha trà mới, Thích thú tựa thông nhìn ráng sa Chợt nghĩ về hưu vui thú ẩn, Một cần câu trúc chuyện đời qua. Cao Bá Quát Thơ Nguyễn Du Khi hương sớm lúc trà trưa Bàn lan điểm nước đường tơ họa đàm. Nguyễn Du Thơ Nguyễn Trãi Làng xưa như mộng trong ngần Can qua chưa dứt, yên phần mừng thay Bao giờ lều cỏ núi mây Pha trà nước suối, gối say đá mềm. Nguyễn Trãi Bao giờ trở lại - Hoàng Trung Thông Nhà lá đơn sơ Tấm lòng rộng mở Nồi cơm nấu dở Bát nước chè xanh Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau. Hoàng Trung Thông Uống trà thức đêm - Yến Lan Chè đọt đang kỳ điểm lá ba Giọt sương lách tách cửa song nhòa Thơ ngồi suốt buổi không ra tứ Cháu đã đun tràn ấm nước pha. Yến Lan Thơ Trần Quang Khải Thử lai yêu khách nghiêu trà uyển Vũ quá hô đồng lý dược lan. Tạm dịch Mùa hè lại, pha trà mời khách uống Cơn mưa xong, gọi trẻ sửa chậu lan. Trần Quang Khải Thơ của Lê Hữu Trác Bán dạ tam bôi tửu, Bình minh số trản trà. Nhất nhật cứ như thử, Lương y bất đáo gia. Tạm dịch Nửa đêm ba chén rượu Sáng sớm một tuần trà Mỗi ngày đều được như thế Lương y không phải đến nhà. Lê Hữu Trác 5. Thơ về uống trà một mình Thú thưởng trà không nhất thiết phải có một ai đó ở bên cạnh để đàm đạo về thơ văn, cuộc đời hay triết lý. Cái hay của trà đạo là chúng ta hoàn toàn có thể thưởng trà một mình, tự đàm đạo và ngẫm nghĩ về các triết lý một mình. Chúng ta cùng tham khảo những bài thơ về trà khi thưởng thức một mình trong phần này. Hai Chữ - Bounthanh Sirimoungkhoune Sương thu lãng đãng phủ trắng đường Mờ mờ ánh đèn dưới màn sương Như đứng trên áng mây trời đó Ngó tìm bóng em thấy thêm thèm Sương chiều rơi đổ mừng thu đến Một mình trà chén bến bờ đâu Thủ Đức em xa nơi bờ bến Yêu thương hai chữ để chúc nhau. Bounthanh Sirimoungkhoune Một Ngày - Thái Thăng Long Đơn giản Cùng rắc rối Lo toan Cùng thảnh thơi. Uống trà một mình Không đợi. Uống trà một mình Suy ngẫm tương lai. Thái Thăng Long Bao Mùa Vẫn Xa - Bounthanh Sirimoungkhoune Nhớ khi ngồi xuống làm thơ Một mình trà chén vật vờ cảnh khuya Gió như chia sẻ đường đi Dòng thơ lạnh lẽo phủ mưa trong lòng Ghi xuống bao lời tiếc mong Ý thơ đã gợn lời trông ngóng người Lầu thơ chẳng thấy tươi vui Lòng người thêm thất đứng ngồi thiết tha Yêu thương thì thấy mặn mà Ngẩng lên lại thấy mình xa cõi bờ Trao nhau từng bước ngẩn ngơ Dòng thơ ghi xuống bao mùa vẫn xa. Bounthanh Sirimoungkhoune Ngập Tràn - Bounthanh Sirimoungkhoune Chập chùng bao cảnh đầy vơi Bao năm thơ thẩn canh dài mỏng manh Một mình trà chén đêm thanh Dòng thơ lạnh giá long lanh nỗi buồn Bao năm đông lạnh phủ sương Thời gian trôi trải bão vương mây mù Ngồi đếm từng bước ngẩn ngơ Gom từng hạt gió hạt mưa sum vầy Bao năm giông tố phủ đầy Đêm ngồi nghe tiếng than rầy lòng khuya Cạn ly tô dệt tình thơ Ghi dòng mực lạnh thẫn thờ thời gian Xuân đi hoa lại úa tàn Dòng thơ lạnh giá ngập tràn yêu thương. Bounthanh Sirimoungkhoune Xem thêm Top 28 bài thơ buồn một mình tâm trạng, càng đọc càng thấm 6. Tuyển tập thơ về trà sữa Là một trong những thức uống được giới trẻ cực kỳ yêu thích, trà sữa cũng trở thành một đề tài đầy hài hước và thú vị trong thơ ca. Các bạn đừng quên lưu lại những câu thơ, bài thơ về trà sữa để làm caption nhé! Thơ vui về trà sữa Trà đổ vào sữa hay sữa đổ vào trà Anh đổ em hay em đổ anh thì cũng như vậy mà. Hôm nay em mệt rã rời Muốn uống trà sữa anh mời được không? Thà béo không ai thèm yêu Còn hơn nghiện đến đìu hiu đêm ngày. Trà xanh, sữa trắng, hạt đen Em xinh em uống kiểu nào cũng xinh. Con đi con nhớ quê nhà Nhớ cơm má nấu, nhớ trà chị mua. Hút cạn ly, xơi cạn hạt Uống cạn rồi thì hãy nói yêu anh. Hôm nay làm việc mệt rồi Bên ly trà sữa ta ngồi có đôi. Xếp hàng chờ đợi đã lâu Chờ ly trà sữa chờ câu ân tình. Hôm nay rảnh rỗi rẽ vào Trà sữa quán lá, thế nào gặp em Hân hạnh xin được làm quen Còn một ghế trống, bon chen xin ngồi. Khéo khéo trà kia chát chát lòng Thêm vào chút sữa hỏi ngon không Rằng thưa hương vị nghe là lạ Nhoẻn miệng cười lên má ửng hồng Sữa béo trà thơm ấm ấm lòng Mời người tri kỷ chốn chợ đông Thả tình vương vấn hương thơm ngát Trà sữa một ly thắm giấc nồng. Chuyện Tình Bốn Năm - Hồ Quốc Ái Yêu em đã bốn năm rồi Yêu em trông ngóng đứng ngồi không yên Hai ta chẳng gặp thường xuyên Nếu mà đến gặp có phiền đến em! Hay là liều mạng thử xem Mua ly trà sữa, cây kem tặng nàng Bỗng đâu lời nhắc “ngàn vàng” “Ông đừng liều mạng mà sang bên này Ông đến ba má tui rầy Anh hai tui chửi cả ngày lẫn đêm. Gia đình đang ấm đang êm Ông đừng có đến gây thêm ồn ào!” Nhớ lời hăm doạ hôm nào Có đến cũng chẳng dám vào thăm em Tình buồn trà sữa, cây kem Thôi đành lỡ hẹn với em mất rồi! Tình em sao quá xa xôi Dầu không có cách mấy đồi, mấy sông! Em về bên ấy vui không? Em về còn có nhớ mong trong lòng? Em về bên ấy nhớ không? Đã lâu không gặp có trông bên này! Hay là bên ấy sợ rầy Không sang đây nữa, chẳng ngày gặp nhau. Nếu là vậy, biết làm sao Lâu ngày không gặp quên mau thôi à! Tình này càng lúc càng xa Nếu mà êm ấm khỏi qua làm gì Thời gian thấm thoát trôi đi Trăm năm cũng nhạt, nói gì bốn năm. Hồ Quốc Ái Miên Man - Khánh Linh Chiều xuân ảm đạm miền quan tái Mấy hạt mưa làm ướt lá cây Đọt trúc bên thềm vươn búp nõn Chờ mong những giọt nắng hao gầy Cõi bắc thiên di vài cánh nhạn Nhìn cơn gió núi quyện mây bồng Ngoài song bướm trắng hoài bay lượn Tựa cửa, chân trời dõi mắt trông.... Chiều nay anh có về qua phố? Ghé quán anh đào, tiệm nước hoa Nhấp ngụm trà thơm lòng tĩnh tại Thầm thương cỏ nội chốn quê nhà? Gói chặt hình anh vào nỗi nhớ Niềm thương gửi lại bến Lam Kiều Kề môi uống cạn ly trà sữa Thấy cả tâm hồn vọng tiếng tiêu...! Lê Khánh Linh Một chút - Ngũ Đệ Một chút khi ghen, chút giận hờn Ngọt ngào, say đắm nụ yêu thương... Nhẹ lên đôi mắt hằn ngây dại Chạm khẽ vành môi ngất vị đường Một chút bên em thấy lạ lùng Nghe lòng thổn thức, trái tim rung Lửa yêu hừng hực đương nồng cháy Xúc cảm trào dâng đến tột cùng Một chút lơ ngơ chẳng tỏ tường.. Bao trò quấy phá, nghịch còn hơn Tính tình ương ngạnh như con nít Lúc nắng, lúc mưa, bởi... khó lường! Một chút vô tâm để nỗi buồn Rưng rưng mắt ướt lại càng thương Cô nương! Trà sữa mình hoà nhé! Dỗi tổ kém sang lại cứ lườm! Một chút hương yêu khiến đậm đà Trong tay nhịp bước quyện câu ca Chỉ hồng se kết niềm mong ước Cau trắng, trầu xanh, một mái nhà Một chút thôi em! Để được gần... Xa nhau một chút dạ bâng khuâng Dư hương còn đọng trên vai áo Một chút nhớ em! muốn thật gần. Ngũ Đệ Xem thêm Tổng hợp stt trà sữa không chỉ hay ho mà còn siêu dễ thương dành cho hội những người không thể sống thiếu trà sữa Là một nét văn hoá cổ truyền đặc biệt của người Việt, thưởng trà đã đi vào văn học, trở thành nguồn cảm hứng bất tận để các bậc thi nhân viết nên những bài thơ về trà mộc mạc mà nên thơ, thi vị mà tao nhã. Mong rằng các bạn đã có những phút giây vừa thoải mái, vừa dễ chịu khi thưởng thức những bài thơ về trà hay nhất. Hãy tiếp tục theo dõi các bài viết sau trên VOH để tìm hiểu thêm những bài thơ hay về các chủ đề khác nhé! Sưu tầm Nguồn ảnh Internet
Trang chủ Cười 24H Thứ Tư, ngày 05/09/2012 1108 AM GMT+7 Chừa được cái gì hay cái nấy. Có chăng chừa rượu với chừa trà... Hôm nay 5 tháng 9 năm 2012, cách đây đúng 142 năm nhà thơ Tú Xương ra đời. Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên khai sinh là Trần Duy Uyên, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định. Ông chỉ sống ở trên cõi đời này có 37 năm nhưng đã để lại cho hậu thế hơn trăm bài thơ đủ mọi thể loại thơ từ Thất ngôn bát cú; tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy. Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc “thần thơ thánh chữ”. Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau ba thi hào dân tộc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương và Đoàn Thị Điểm. Nhân dịp sinh nhật ông, Cười 24H từ lâu vốn ngưỡng mộ ông, coi Tú Xương như ông tổ của dòng thơ hài hước, châm biếm Việt Nam xin mạn phép múa trộm “bàn phím” ít dòng để tỏ lòng tưởng nhớ đến tiền nhân. Tú Xương rất đẹp trai! Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương tuyệt nhiên không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú chắc chắn là cực kỳ đẹp trai, phong độ. Điều này được Cười 24H “suy luận” qua bài thơ của người bạn học tên Lương Ngọc Tùng tả về ông “Cùng làng, cùng phố, học cùng trường Nhớ rõ hình dung cụ Tú Xương, Trán rộng, tai dày, da tựa tuyết, Mồm tươi, mũi thẳng, mắt như gương. Tiếng vàng sang sảng ngâm thơ phú, Gót ngọc khoan khoan dạo phố phường. Mấy chục năm trời đà vắng bóng, Nghìn năm còn rạng dấu thư hương” Không đẹp trai sao được khi Trán rộng, da trắng, mồm tươi, mũi thẳng, mắt sáng, thư sinh? Cũng chính vì đẹp trai như vậy nên các cô gái mê Tú Xương như điếu đổ, đến nỗi mới 16 tuổi Tú Xương đã phải lên giường - xin lỗi, lên đường lấy vợ. * * * Tú Xương cũng mê tín? Cả cuộc đời Tú Xương hầu như chỉ gắn liền với thi cử, tổng cộng 8 lần, đó là các khoa Bính Tuất 1886; Mậu Tý 1888; Tân Mão 1891; Giáp Ngọ 1894; Đinh Dậu 1897; Canh Tý 1900; Quý Mão 1903 và Bính Ngọ 1906. Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ 1894 ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ lấy thêm. Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão 1903 Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi vẫn trượt vỏ chuối, Tú Xương đã cáu sườn đến độ thốt ra thơ “Tế đổi làm Cao mà chó thế, Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!” * * * Tên Tú Xương được dùng để quảng cáo lò luyện thi! Ăn theo câu chuyện Tú Xương nổi tiếng thi hỏng, ngày nay có một trung tâm luyện thi đã quảng cáo rằng “Bạn có biết rằng có những người thi tới 8 lần không đỗ, mặc dù họ không hề kém, đó là ai, xin thưa đó chính là Tú Xương! Vậy tại sao Tú Xương thi 8 lần đều trượt? Bởi vì Tú Xương đã không tới luyện thi đại học tại trung tâm của chúng tôi. Hãy đến trung tâm luyện thi đại học X, địa chỉ Y, số điện thoại Z để có số phận khác Tú Xương”. * * * Tú Xương là nhà báo! Tú Xương có thể coi như là một nhà báo đầu tiên ở VN vì tính báo chí trong thơ ông thể hiện rất rõ trộm vía, nếu sống ở thời nay thì chí ít ông cũng là tổng biên tập một tờ nào đó. Thơ Tú Xương như một tấm ảnh ghi lại những gì xung quanh, nào là ăn cắp vào nhà pha, nào sư ở tù, mán ngồi xe, nào cảnh mẹ vợ ngủ với chàng rể, cô ký lấy lẽ Cũng rất gần báo chí là cái tư duy bám sát hiện tượng và sự vật của thơ Tú Xương. Ông thích mô tả, mà không thích tổng hợp vội, khái quát non. Nhân vật ông nói tới phải có cái tên cụ thể ông ấm Điềm, ông cử Nhu, ông đồ Bốn..., địa điểm xảy ra hành động cũng là những phố, những làng có thật Hàng Lờ, Hàng Nâu, Hàng Sắt Đặc biệt, với Tú Xương bắt đầu cả loạt thơ chân dung viết về đủ loại ông đốc, ông phủ, ông đội, ông lang, ông cò, cô đầu, lái buôn, bợm già, công chức thuộc địa Những con người có thật đó vào thơ ông sống động linh hoạt như ở ngoài đời mà vẫn gợi ra những ý nghĩ khái quát mà các bài báo sắc sảo phải có. Nhiều sáng tác của Tú Xương hình như được viết rất nhanh. Sự việc vừa xảy ra là ông có thơ ngay. Lại có những bài ông làm theo theo đơn đặt hàng của người khác, mà vẫn chân thành, sâu sắc và gửi gắm được tâm sự riêng của mình. Cái lối viết có vẻ như không cần cảm hứng này đích thị là một kiểu rất gần với báo chí hiện đại. Nếu là nhà báo, Tú Xương sẽ là một nhà báo viết được nhiều đề tài, thể loại khác nhau. Trong khi bị gò bó ở thể thơ thất ngôn, ông vẫn tỏ ra là một ngòi bút phóng túng, có thể “xoay phỏm” đủ kiểu, từ phóng sự, đặc tả cho tới tạp ghi, phiếm luận, nhàn đàm... thậm chí là cả dịch thuật nữa. * * * Tú Xương là “thần tượng” của đàn ông Việt! Chỉ với 4 câu thơ, Tú Xương đã làm đàn ông VN đến tận hàng trăm năm sau vẫn tỏ rõ sự “ngưỡng mộ, biết ơn” khi ông đã nói rõ lòng họ một cách đầy công khai nhưng cũng thật... tinh tế trong bài thơ Ba cái lăng nhăng đáng được lọt vào top những bài thơ đi cùng năm tháng Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà! Xem một số bài họa * * * Tú Xương là người tình tuyệt vời của vợ Với đàn ông thì Tú Xương đã thành tấm gương cao cả, với phụ nữ Tú Xương cũng khiến họ có thể dâng hiến cả đời cho nhà thơ bởi những “tuyệt phẩm siêu nịnh vợ” với những dòng thơ như rút từ gan ruột của mình, đó là các bài “Thương vợ”, “Văn tế sống vợ”, hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương hiện lên đẹp đến mẫu mực như hình ảnh phụ nữ VN điển hình với những câu “Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng Lặn lội thân cò nơi quãng vắng Eo sèo mặt nước buổi đò đông...” Thương Vợ Dâng hiến cho chồng ở đây là Tú Xương cả vật chất lẫn tinh thần chưa đủ, trên thực tế vợ của nhà thơ còn dâng hiến cho ông đến tận 8 người con 6 trai, hai gái chứ “năm con với 1 chồng” là nhà thơ tài hoa và khỏe mạnh phong độ của chúng ta còn chưa “liệt kê” hết ở thời điểm sáng tác bài thơ “nịnh vợ” siêu kinh điển này. Cười 24H tin chắc rằng bất kỳ một người vợ VN nào “vô tình” đọc được những dòng thơ biết ơn và ngưỡng mộ vợ đến vậy trong nhật ký bí mật của chồng mà không nở một nụ cười mãn nguyện đồng thời nhũn như con chi chi và mất hết sức chiến đấu thì không thể nào là phụ nữ! Càng nói càng phục cái tài Tú Xương đến sát đất. Nói không ngoa thì đây có thể coi là một trong những “diệu kế” hàng đầu của “Binh Pháp trị Vợ”. Chỉ riêng điều này đã đủ để Tú Xương trở thành một Hưng Đạo Vương trong Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. * * * Chỉ duy nhất Tú Xương làm được Tú Xương còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử thơ phú Việt Nam Tú Xương Có "môn Phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương, có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ “xương” với nghĩa "thịnh vượng" còn có nghĩa là đẹp, thẳng. Sách xưa có câu "Đức giả xương" người có đức, thịnh vậy. Không phải là xương theo nghĩa “xương thịt”. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "hư cấu", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương thịt lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, 21 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc... và ngay cả ở 24H cũng có Cử Tạ và Tú Jap, dù không nổi tiếng nhưng cũng nổi... tai tiếng viết tệ! * * * Với tinh thần ngưỡng mộ cụ Tú Xương cao độ, người viết bài này xin dẫn lại một bài thơ của chính mình phỏng theo lối thơ của cụ Tú để nói về những người đang ngày đêm noi gương cụ viết tiếp những dòng trào phúng, hài hước, châm biếm trên Cười 24H Chém cha cái kiếp viết truyện cười Hai tay ôm phím, mặt ngửa trời Ngó giống đười ươi cười sằng sặc Rặn ra một đống “những vui tươi” Chém cha cái kiếp viết truyện cười Ruột gan dẫu héo mặt phải tươi Mỗi ngày phục vụ bao độc giả Làm dâu trăm họ mệt đứt hơi Chém cha cái kiếp viết truyện vui Sếp chê truyện viết rất... dở hơi Dăm ba độc giả khen... thâm thúy Nhẫn tâm kẻ phán “Viết như b...” bò Chém cha cái kiếp viết truyện hài Gà chưa kịp gáy đã đăng bài Đêm hôm khuya khoắt bò trên Net Rình rập post tin buổi sáng mai Chém cha cái kiếp viết tiếu lâm Người yêu, kẻ ghét, đứa chê... hâm Vài cô ngúng nguẩy “Trình hơi thấp” Dăm chị ỉ ôi “chuyện quá... dâm”!
một trà một rượu một đàn bà